Năm 1996 đánh dấu 70 năm bản Kinh Thánh Việt Ngữ đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được phát hành. Gần đây, một số đọc giả yêu cầu chúng tôi cung cấp thêm những dữ kiện liên quan đến việc dịch và phát hành Kinh Thánh sang Việt Ngữ trong quá khứ.Dựa vào những dữ kiện thu thập được từ các tài liệu của Thánh Kinh Hội (UBS), của Giáo Hội Công Giáo, của báo chí trong Hội Thánh Tin Lành và tham khảo với một vài đầy tớ Chúa liên hệ, bài viết dưới đây trình bày khái quát những sự kiện chính liên quan đến việc dịch và phát hành Kinh Thánh sang Việt Ngữ.Chắc chắn bài viết còn có nhiều thiếu sót nhưng Ban Biên Tập hy vọng tài liệu sẽ giúp ích phần nào cho những bạn đọc đang nghiên cứu về vấn đề nầy. Mong rằng trong tương lai, qua bạn đọc, chúng tôi có thể thu thập thêm những tài liệu bổ ích khác để đúc kết thành một sử liệu đầy đủ, chính xác cho Hội Thánh.
I. Sơ Lược Về Việc Cơ-đốc Giáo Truyền Ðến Việt Nam:
Căn cứ vào các sách sử của Việt Nam và Trung Hoa, một số nhà nghiên cứu cho rằng hóa trình truyền bá Cơ-đốc Giáo đến Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu từ những thế kỷ đầu của công nguyên đến cuối thế kỷ 15, và giai đoạn thứ II, từ đầu thế kỷ thứ 16 trở về sau.
Theo Pedro Ordonez de Cevallos, một Linh Mục Tây Ban Nha, Sứ Ðồ Thô-ma là người đầu tiên truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam. Cũng theo Linh Mục Cevallos, khi ấy Sứ Ðồ Thô-ma đã làm chứng cho một vị vua Việt Nam tiếp nhận Chúa.
Linh Mục Ordonez de Cevallos là một trong những giáo sĩ đầu tiên đến Việt Nam truyền giáo vào năm 1590. Ông là một người có uy tín và được ơn Chúa. Ông đã làm phép báp-têm cho Công Chúa Mai Hoa dưới thời nhà Lê tin Chúa. Tuy nhiên, ý kiến của Linh Mục Cevallos cho rằng Sứ Ðồ Thô-ma đã đến truyền giảng tại Việt Nam vào thế kỷ thứ I khiến nhiều nhà nghiên cứu đặt nghi vấn vì nhận định này không có sử liệu minh chứng.
Theo sách Ngoại Kỷ, suốt thế kỷ thứ I, Việt Nam chỉ độc lập khoảng 3 năm dưới thời Hai Bà Trưng (40-43 S.C.). Trước khi Hai Bà Trưng giành độc lập, nước Việt - khi ấy gọi là Giao Chỉ - bị sáp nhập vào Tây Hán (Bái Công) 149 năm. Sau khi Hai Bà Trưng mất, Việt Nam bị nhập về Ðông Hán (Quang Võ) 144 năm. Như vậy, nếu lời Linh Mục Cevallos là đúng, Sứ Ðồ Thô-ma phải đến Việt Nam vào khoảng năm 40-43 S.C., và hai Bà Trưng, vua Việt Nam vào thế kỷ thứ I, đã tin Chúa. Tuy nhiên, trong những sử sách Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay, không một tài liệu nào ghi lại việc ấy.
Hơn nữa, về phương diện lịch sử Hội Thánh, giả thuyết này cũng khó được chấp nhận. Nếu những nhà làm lịch tính đúng, Hội Thánh được thành lập vào khoảng năm 33 S.C.. Nhưng chúng ta biết, trong vài năm đầu Hội Thánh chỉ phát triển tại Giê-ru-sa-lem. Khi những cơn bắt bớ đầu tiên xảy ra, Hội Thánh mới phát triển sang vùng Giu-đê và Sa-ma-ri. Nếu chỉ vài năm sau đó, các đầy tớ Chúa đã vượt gần nửa vòng trái đất để truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam thì có lẽ hơi quá sớm.
Phạm Văn Sơn, tác giả Việt Sử Tân Biên, do nhà xuất bản Ðại Nam phát hành tại Sài Gòn vào năm 1961, trích dẫn ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng thời điểm đầu tiên mà Cơ-đốc Giáo được truyền đến Việt Nam có lẽ vào thời Sĩ Nhiếp làm Thái Thú tại Việt Nam (186-226 S.C.). Các học giả này cho rằng Sĩ Nhiếp đã tin Chúa và ông chính là người đã cho làm nhiều nhà thờ có hình Chúa Giê-xu và thập tự giá. Những di tích này được tìm thấy vào thế kỷ 16 dưới thời Hậu Lê.
Linh Mục Nguyễn Hồng trong cuốn Lịch Sử Truyền Giáo Việt Nam xuất bản vào năm 1959, cho biết một số thương buôn Âu châu đã đến Việt Nam từ thế kỷ thứ II. Sử Trung Hoa ghi lại rằng vào năm 166, có một sứ giả do Marcol Aurelio Antonio sai đến Trung Quốc cho biết ông đã ghé qua Giao Chỉ. Năm 266, một thương nhân tên là Tsin Lonen theo đường từ Giao Chỉ lên Nam Kinh. Vào năm 980, một số Giáo Sĩ thuộc phái Cảnh Giáo (Nestoriens) đã từ Bắc Việt đến Trung Quốc.
Ðể minh chứng cho giả thuyết đạo Chúa được truyền đến Việt Nam từ lâu, các sử gia cho biết vào thời vua Lê Anh Tông (1557-1573), khi sửa chữa lại một vài đền cổ, người ta tìm thấy hình một Thập Tự rất cổ trong một bức tường. Khi được trình tâu việc này, vua Lê Anh Tông đã cho trọng đãi các nhà truyền giáo Tây Phương, nhờ đó việc truyền giáo trước kia vốn bị cấm nay được dễ dãi hơn.
Dựa vào những tài liệu trên, một số sử gia cho rằng Cơ-đốc giáo đã được truyền bá đến Việt Nam khá lâu, từ trước thời kỳ Cải Chánh Giáo Hội. Công cuộc truyền giáo có thể khởi đầu từ những thế kỷ đầu tiên của công nguyên. Sau đó, Cơ-đốc Giáo bị cấm đoán và bị tiêu diệt mãi cho đến đầu thế kỷ 16 mới phát triển trở lại.
Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo vào Việt Nam được biết rõ và được sử sách ghi nhận chính thức chỉ bắt đầu từ thế kỷ 16. Sách Khâm Ðình Việt Sử, thời Nguyễn, do Quốc Sử Quán biên soạn, ghi lại rằng:
Nguyên hòa nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1532-1533) có một Dương nhân (người Tây Phương) tên là I-nê-khu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Ðịnh.
Khi ấy, vua Lê Trang Tông đã ra lệnh cấm đạo nghiêm nhặt. Các tín hữu bị bắt bớ. Việc truyền giáo chỉ được dễ dàng một chút về sau vào thời vua Lê Anh Tông như đã nhắc ở trên.
Vào thế kỷ 16, lãnh thổ Việt Nam chỉ gồm có miền Bắc và vài tỉnh miền Trung ngày nay, tuy nhiên nước Việt đã có mầm mống chia đôi. Sau khi Lê Cung Hoàng bị Mạc Ðăng Dung cướp ngôi (1546), một triều thần nhà Lê là Nguyễn Kim đã cùng con rể là Trịnh Kiểm đánh đuổi nhà Mạc, tái lập nhà Lê, gọi là Lê Trung Hưng tức Nam Triều. Tuy nhiên, nhà Mạc (Bắc Triều) vẫn còn chiếm giữ nhiều vùng đất phía Bắc và tìm cách khôi phục quyền hành.
Mạc Mậu Hợp (1562-1592), muốn khôi phục lại nhà Mạc và mưu tìm sự hậu thuẫn của Tây Phương nên đã viết thư sang Manila (Philippines) mời các Linh Mục sang truyền giáo tại Việt Nam.
Sau khi nhận được thư của Mạc Mậu Hợp, năm 1578 các tu sĩ dòng Franciscan từ Philippines đến Việt Nam truyền bá Công giáo. Ðến năm 1615, các tu sĩ Jesuit - Dòng Tên - lại tiếp bước các tu sĩ dòng Franciscan đến Việt Nam.
Sau khi thắng nhà Mạc, hai họ Trịnh Nguyễn phân tranh và nước Việt Nam bị chia đôi. Giữa bối cảnh ấy, công việc truyền giáo tại Việt Nam trong thời kỳ đầu vẫn có nhiều kết quả khả quan. Theo sử sách, đến năm 1639, tại Ðàng Ngoài (miền Bắc) đã có 80.000 tín đồ và tại Ðàng Trong (miền Trung) có 50.000 tín đồ Công Giáo.
Trong hai thế kỷ tiếp theo, tín đồ Công Giáo tại Việt Nam bị bắt bớ dữ dội. Ðến đời vua Tự Ðức, ước tính có đến 130.000 giáo hữu Việt Nam tử vì đạo.
II. Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ:
Khi mới đến Việt Nam, để cho việc truyền giáo được hiệu quả, các tu sĩ dòng Tên đã dành nhiều thì giờ tìm hiểu văn hóa, tập quán của dân Việt. Vì chữ Nôm khó học nên các giáo sĩ đã nghĩ đến một phương pháp mới dùng mẫu tự La Tinh để ghi âm tiếng Việt Nam, về sau gọi là chữ Quốc Ngữ.
Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, Linh Mục Gaspard de Amaral đã soạn cuốn Từ Vựng Việt Nam - Bồ-đào-nha bằng chữ Quốc Ngữ. Linh Mục Antoine de Barbosa soạn tiếp cuốn Từ Vựng Bồ-đào-nha - Việt Nam. Dựa vào đó, về sau Linh Mục Alexandre de Rhodes hệ thống lại và soạn ra bộ Từ Ðiển Việt Nam - Bồ-đào-nha - La Tinh. Sách nầy được phát hành tại La Mã vào năm 1651. Linh Mục Alexandre de Rhodes cũng xuất bản một số sách vở khác bằng chữ Quốc Ngữ và ông được xem là cha đẻ của chữ Quốc Ngữ như chúng ta biết. Sau đó, chữ Quốc Ngữ đã thay thế chữ Nôm trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
Mặc dầu chữ Quốc Ngữ được phát minh từ thế kỷ 17 với mục đích phổ biến đạo Chúa, nhưng phải mất gần 250 năm sau, đến năm 1872, Giáo Hội Công Giáo mới phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Suốt gần 100 năm kế tiếp, các bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ của Giáo Hội Công Giáo chỉ nhằm phục vụ cho hàng giáo phẩm, chứ không phổ biến rộng rãi cho giáo dân. Mãi đến sau Cộng Ðồng Vatican II (1963), Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới thực hiện những nỗ lực đáng kể để phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh bằng Việt Ngữ.
Về phía Giáo Hội Tin Lành, trước khi Tin Lành được truyền bá vào Việt Nam, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Chỉ năm năm sau khi Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911), vào năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình.
Căn cứ trên những tài liệu từ Giáo Hội Tin Lành, Giáo Hội Công Giáo, và tài liệu của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (United Bible Societies - UBS), quá trình phiên dịch và xuất bản Kinh Thánh Việt Ngữ có thể sơ lược như sau:
Căn cứ vào các sách sử của Việt Nam và Trung Hoa, một số nhà nghiên cứu cho rằng hóa trình truyền bá Cơ-đốc Giáo đến Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu từ những thế kỷ đầu của công nguyên đến cuối thế kỷ 15, và giai đoạn thứ II, từ đầu thế kỷ thứ 16 trở về sau.
Theo Pedro Ordonez de Cevallos, một Linh Mục Tây Ban Nha, Sứ Ðồ Thô-ma là người đầu tiên truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam. Cũng theo Linh Mục Cevallos, khi ấy Sứ Ðồ Thô-ma đã làm chứng cho một vị vua Việt Nam tiếp nhận Chúa.
Linh Mục Ordonez de Cevallos là một trong những giáo sĩ đầu tiên đến Việt Nam truyền giáo vào năm 1590. Ông là một người có uy tín và được ơn Chúa. Ông đã làm phép báp-têm cho Công Chúa Mai Hoa dưới thời nhà Lê tin Chúa. Tuy nhiên, ý kiến của Linh Mục Cevallos cho rằng Sứ Ðồ Thô-ma đã đến truyền giảng tại Việt Nam vào thế kỷ thứ I khiến nhiều nhà nghiên cứu đặt nghi vấn vì nhận định này không có sử liệu minh chứng.
Theo sách Ngoại Kỷ, suốt thế kỷ thứ I, Việt Nam chỉ độc lập khoảng 3 năm dưới thời Hai Bà Trưng (40-43 S.C.). Trước khi Hai Bà Trưng giành độc lập, nước Việt - khi ấy gọi là Giao Chỉ - bị sáp nhập vào Tây Hán (Bái Công) 149 năm. Sau khi Hai Bà Trưng mất, Việt Nam bị nhập về Ðông Hán (Quang Võ) 144 năm. Như vậy, nếu lời Linh Mục Cevallos là đúng, Sứ Ðồ Thô-ma phải đến Việt Nam vào khoảng năm 40-43 S.C., và hai Bà Trưng, vua Việt Nam vào thế kỷ thứ I, đã tin Chúa. Tuy nhiên, trong những sử sách Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay, không một tài liệu nào ghi lại việc ấy.
Hơn nữa, về phương diện lịch sử Hội Thánh, giả thuyết này cũng khó được chấp nhận. Nếu những nhà làm lịch tính đúng, Hội Thánh được thành lập vào khoảng năm 33 S.C.. Nhưng chúng ta biết, trong vài năm đầu Hội Thánh chỉ phát triển tại Giê-ru-sa-lem. Khi những cơn bắt bớ đầu tiên xảy ra, Hội Thánh mới phát triển sang vùng Giu-đê và Sa-ma-ri. Nếu chỉ vài năm sau đó, các đầy tớ Chúa đã vượt gần nửa vòng trái đất để truyền bá đạo Chúa đến Việt Nam thì có lẽ hơi quá sớm.
Phạm Văn Sơn, tác giả Việt Sử Tân Biên, do nhà xuất bản Ðại Nam phát hành tại Sài Gòn vào năm 1961, trích dẫn ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng thời điểm đầu tiên mà Cơ-đốc Giáo được truyền đến Việt Nam có lẽ vào thời Sĩ Nhiếp làm Thái Thú tại Việt Nam (186-226 S.C.). Các học giả này cho rằng Sĩ Nhiếp đã tin Chúa và ông chính là người đã cho làm nhiều nhà thờ có hình Chúa Giê-xu và thập tự giá. Những di tích này được tìm thấy vào thế kỷ 16 dưới thời Hậu Lê.
Linh Mục Nguyễn Hồng trong cuốn Lịch Sử Truyền Giáo Việt Nam xuất bản vào năm 1959, cho biết một số thương buôn Âu châu đã đến Việt Nam từ thế kỷ thứ II. Sử Trung Hoa ghi lại rằng vào năm 166, có một sứ giả do Marcol Aurelio Antonio sai đến Trung Quốc cho biết ông đã ghé qua Giao Chỉ. Năm 266, một thương nhân tên là Tsin Lonen theo đường từ Giao Chỉ lên Nam Kinh. Vào năm 980, một số Giáo Sĩ thuộc phái Cảnh Giáo (Nestoriens) đã từ Bắc Việt đến Trung Quốc.
Ðể minh chứng cho giả thuyết đạo Chúa được truyền đến Việt Nam từ lâu, các sử gia cho biết vào thời vua Lê Anh Tông (1557-1573), khi sửa chữa lại một vài đền cổ, người ta tìm thấy hình một Thập Tự rất cổ trong một bức tường. Khi được trình tâu việc này, vua Lê Anh Tông đã cho trọng đãi các nhà truyền giáo Tây Phương, nhờ đó việc truyền giáo trước kia vốn bị cấm nay được dễ dãi hơn.
Dựa vào những tài liệu trên, một số sử gia cho rằng Cơ-đốc giáo đã được truyền bá đến Việt Nam khá lâu, từ trước thời kỳ Cải Chánh Giáo Hội. Công cuộc truyền giáo có thể khởi đầu từ những thế kỷ đầu tiên của công nguyên. Sau đó, Cơ-đốc Giáo bị cấm đoán và bị tiêu diệt mãi cho đến đầu thế kỷ 16 mới phát triển trở lại.
Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo vào Việt Nam được biết rõ và được sử sách ghi nhận chính thức chỉ bắt đầu từ thế kỷ 16. Sách Khâm Ðình Việt Sử, thời Nguyễn, do Quốc Sử Quán biên soạn, ghi lại rằng:
Nguyên hòa nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1532-1533) có một Dương nhân (người Tây Phương) tên là I-nê-khu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia-tô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và ở làng Trà Lũ, huyện Giao Thủy thuộc tỉnh Nam Ðịnh.
Khi ấy, vua Lê Trang Tông đã ra lệnh cấm đạo nghiêm nhặt. Các tín hữu bị bắt bớ. Việc truyền giáo chỉ được dễ dàng một chút về sau vào thời vua Lê Anh Tông như đã nhắc ở trên.
Vào thế kỷ 16, lãnh thổ Việt Nam chỉ gồm có miền Bắc và vài tỉnh miền Trung ngày nay, tuy nhiên nước Việt đã có mầm mống chia đôi. Sau khi Lê Cung Hoàng bị Mạc Ðăng Dung cướp ngôi (1546), một triều thần nhà Lê là Nguyễn Kim đã cùng con rể là Trịnh Kiểm đánh đuổi nhà Mạc, tái lập nhà Lê, gọi là Lê Trung Hưng tức Nam Triều. Tuy nhiên, nhà Mạc (Bắc Triều) vẫn còn chiếm giữ nhiều vùng đất phía Bắc và tìm cách khôi phục quyền hành.
Mạc Mậu Hợp (1562-1592), muốn khôi phục lại nhà Mạc và mưu tìm sự hậu thuẫn của Tây Phương nên đã viết thư sang Manila (Philippines) mời các Linh Mục sang truyền giáo tại Việt Nam.
Sau khi nhận được thư của Mạc Mậu Hợp, năm 1578 các tu sĩ dòng Franciscan từ Philippines đến Việt Nam truyền bá Công giáo. Ðến năm 1615, các tu sĩ Jesuit - Dòng Tên - lại tiếp bước các tu sĩ dòng Franciscan đến Việt Nam.
Sau khi thắng nhà Mạc, hai họ Trịnh Nguyễn phân tranh và nước Việt Nam bị chia đôi. Giữa bối cảnh ấy, công việc truyền giáo tại Việt Nam trong thời kỳ đầu vẫn có nhiều kết quả khả quan. Theo sử sách, đến năm 1639, tại Ðàng Ngoài (miền Bắc) đã có 80.000 tín đồ và tại Ðàng Trong (miền Trung) có 50.000 tín đồ Công Giáo.
Trong hai thế kỷ tiếp theo, tín đồ Công Giáo tại Việt Nam bị bắt bớ dữ dội. Ðến đời vua Tự Ðức, ước tính có đến 130.000 giáo hữu Việt Nam tử vì đạo.
II. Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ:
Khi mới đến Việt Nam, để cho việc truyền giáo được hiệu quả, các tu sĩ dòng Tên đã dành nhiều thì giờ tìm hiểu văn hóa, tập quán của dân Việt. Vì chữ Nôm khó học nên các giáo sĩ đã nghĩ đến một phương pháp mới dùng mẫu tự La Tinh để ghi âm tiếng Việt Nam, về sau gọi là chữ Quốc Ngữ.
Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, Linh Mục Gaspard de Amaral đã soạn cuốn Từ Vựng Việt Nam - Bồ-đào-nha bằng chữ Quốc Ngữ. Linh Mục Antoine de Barbosa soạn tiếp cuốn Từ Vựng Bồ-đào-nha - Việt Nam. Dựa vào đó, về sau Linh Mục Alexandre de Rhodes hệ thống lại và soạn ra bộ Từ Ðiển Việt Nam - Bồ-đào-nha - La Tinh. Sách nầy được phát hành tại La Mã vào năm 1651. Linh Mục Alexandre de Rhodes cũng xuất bản một số sách vở khác bằng chữ Quốc Ngữ và ông được xem là cha đẻ của chữ Quốc Ngữ như chúng ta biết. Sau đó, chữ Quốc Ngữ đã thay thế chữ Nôm trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
Mặc dầu chữ Quốc Ngữ được phát minh từ thế kỷ 17 với mục đích phổ biến đạo Chúa, nhưng phải mất gần 250 năm sau, đến năm 1872, Giáo Hội Công Giáo mới phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Suốt gần 100 năm kế tiếp, các bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ của Giáo Hội Công Giáo chỉ nhằm phục vụ cho hàng giáo phẩm, chứ không phổ biến rộng rãi cho giáo dân. Mãi đến sau Cộng Ðồng Vatican II (1963), Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới thực hiện những nỗ lực đáng kể để phiên dịch và phổ biến Kinh Thánh bằng Việt Ngữ.
Về phía Giáo Hội Tin Lành, trước khi Tin Lành được truyền bá vào Việt Nam, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Chỉ năm năm sau khi Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911), vào năm 1916 các nhà lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành đã bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình.
Căn cứ trên những tài liệu từ Giáo Hội Tin Lành, Giáo Hội Công Giáo, và tài liệu của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (United Bible Societies - UBS), quá trình phiên dịch và xuất bản Kinh Thánh Việt Ngữ có thể sơ lược như sau:
- Vào năm 1872, Giáo Hội Công Giáo xuất bản một cuốn sách hướng dẫn về giáo nghi, trong đó có dịch một số sách Phúc Âm trong Kinh Thánh. Cuốn sách trên được phát hành tại Bangkok, Thái Lan vào năm 1872.
- Năm 1899, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) cho xuất bản Phúc Âm Mác tại Singapore.
- Năm 1900, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) xuất bản Phúc Âm Giăng và đến năm 1903 lại xuất bản sách Công Vụ Các Sứ Ðồ tại Paris. Hai bản dịch nầy do Walter James, nhân viên của Thánh Kinh Hội Anh Quốc, thực hiện.
- Năm 1913, Giáo Sĩ P.M. Hosler thuộc Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (CM&A) đã dịch lại Phúc Âm Mác. Bản dịch nầy được xuất bản năm 1913 tại Ngô Châu (Wuchow), thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa.
- Năm 1913-1914, Giáo Hội Công Giáo đã xuất bản Thánh Kinh Cựu Ước. Bản dịch nầy được in song ngữ với bản La-tinh Vulgate. Ðến năm 1916, Giáo Hội Công Giáo phát hành Tân Ước và cũng in song ngữ, một bên là chữ Việt, một bên là chữ La Tinh theo bản Vulgate.
- Năm 1917, Thánh Kinh Hội đã xuất bản Phúc Âm Mác tại Hà Nội. Có lẽ đây là phần Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin lành in tại Việt Nam.
- Năm 1918, Thánh Kinh Hội xuất bản Phúc Âm Giăng và Sách Công Vụ tại Thượng Hải, Trung Quốc. Năm 1919, lại tiếp tục xuất bản Phúc Âm Mathiơ. Ðến năm 1922, xuất bản sách Sáng thế Ký, Xuất Ê-díp-tô Ký, Luca; tái bản Phúc Âm Mathiơ; đồng thời xuất bản lại ba sách Phúc Âm Mác, Phúc Âm Giăng và Công Vụ đã được sửa chữa.
- Năm 1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925 và xuất bản vào năm 1926 tại Thượng Hải, Trung Hoa.
- Năm 1925, Giáo Hội Công Giáo xuất bản cuốn Các Sách Phúc Âm, do Linh Mục Marcos Gisper Forcadell thực hiện.
- Năm 1932, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) cho phát hành Phúc Âm Mác và Phúc Âm Giăng bằng chữ Nôm. Hai Phúc Âm nầy được in tại Thượng Hải, Trung Hoa.
- Năm 1951, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) tại Hong Kong đã cho xuất bản sách Giăng và sách Công Vụ. Bản dịch mới nầy do cụ Mục Sư Ông Văn Huyên, Giáo Sỉ John D. Olsen, Mục sư Nguyễn Văn Vạn và Mục Sư Phan Ðình Liệu thực hiện.
- Năm 1952, Thánh Kinh Tân Ước Nhuận Chánh được dịch xong. Ban Chấp Hành Trung Ương của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chấp nhận và cho phép ấn hành.
- Năm 1954 Thánh Kinh Hội Anh Quốc cho phát hành bản dịch Tân Ước Nhuận Chánh nêu trên tại Sài Gòn. Sau đó, bản dịch nầy được tái bản và tục bản nhiều lần vào những năm 1957, 1960, 1968. Bản dịch Tân Ước nầy được các học giả gọi là Bản Dịch Việt Văn 1952.
- Năm 1961, một bản dịch Thánh Kinh Tân Ước toàn bộ khác được các tu sĩ Dòng Ða Minh xuất bản tại Sài Gòn.
- Năm 1962, Thánh Tâm Biệt Thư tại Ðà Lạt đã xuất bản Ngũ Kinh Môi Se, Thi Thiên và Thánh Kinh Tân Ước do Linh Mục Gérard Gagnon thực hiện.
- Năm 1963, Thánh Tâm Biệt Thư tại Ðà Lạt lại tiếp tục xuất bản những phần còn lại của Thánh Kinh Cựu Ước gồm những sách từ Giô Suê cho đến sách Gióp và các sách tiên tri từ Ê-sai cho đến Malachi. Những sách nầy cũng do Linh Mục Gérard Gagnon thực hiện.
- Năm 1969, nhà xuất bản Ðức Mẹ tại Sài Gòn phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn phiên dịch.
- Năm 1969, Thánh Kinh Hội Việt Nam cho ấn hành các sách Công Vụ, Phi-lê-môn, Gia-cơ, I & II Phi-e-rơ tại Sài Gòn. Ðây là một phần trong một đề án phiên dịch mới gọi là Bản Dịch Phổ Thông của Thánh Kinh Hội Việt Nam.
- Năm 1970, Linh Mục Trần Hữu Thanh đã sửa chửa lại bản dịch của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn cho phổ cập lại với giọng văn hiện đại và xuất bản cuốn Thánh Kinh Tân Ước nầy để xử dụng trong Nha Tuyên Úy Công Giáo của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
- Năm 1970, Thi Sĩ Nguyễn Xuân Hồng đã dịch Phúc Âm Mác, được in với nhan đề Vào Ðời. Bản dịch mới nầy được phòng sách Tin Lành Sài Gòn xuất bản. Công tác phiên dịch và xuất bản đã được thực hiện dưới sự hổ trợ của Living Bible International (LBI).
- Năm 1971, nhà xuất bản Ra Khơi tại Sài Gòn đã phát hành Kinh Thánh toàn bộ do Linh Mục Trần Ðức Huân thực hiện, với sự giúp đỡ của một Ủy Ban Phiên Dịch. Ủy ban nầy đặt dưới sự hướng dẩn và kiểm soát của Giám Mục Trương Cao Ðại.
- Năm 1973 Thánh Kinh Hội Việt Nam lại cho xuất bản tiếp các sách Phúc Âm Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng, cùng với sách Công Vụ đã được hiệu đính.
- Theo tài liệu của Thánh Kinh Hội Quốc Tế Liên Hiệp (UBS), những sách vừa phát hành nêu trên cùng những sách đã được Thánh Kinh Hội Việt Nam phát hành vào năm 1969 là những sách đã được dịch xong của một bản dịch mới gọi là Bản Phổ Thông (Common Language Version) do các dịch giả gồm: Mục Sư Lê Hoàng Phu, Mục Sư Lê Vĩnh Thạch, Mục Sư Nguyễn Xuân Hồng, ông Nguyễn Văn Nha cùng một số các vị khác thực hiện. Tuy nhiên, bản này chỉ in rời rạt mà không hoàn tất.
- Năm 1975, World Home Bible League tại South Holland, Illinois phát hành một bản dịch sách Phúc Âm Mác mới.
- Năm 1976, toàn bộ Kinh Thánh do Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn thực hiện đã được phổ biến tại Sài Gòn. Phần Tân Ước trong bản dịch này được phiên dịch từ nguyên văn Hy Lạp. Tuy nhiên, do tình hình chính trị tại Việt Nam không thuận lợi cho việc xuất bản Kinh Thánh cho nên năm 1980, các Linh Mục dòng Chúa Cùu Thế tại La Verne, California đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch Kinh Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn tại California.
- Năm 1982, Hội Living Bible International tại Hong Kong đã phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Mục Sư Tiến Sĩ Lê Hoàng Phu thực hiện. Bản dịch mới này thường được đọc giả biết đến dưới tên Thánh Kinh Tân Ước Diễn Ý.
- Cũng vào đầu thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo phát hành bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do Hồng Y Trịnh Văn Can thực hiện, tại Hà Nội. Bản dịch này được Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tái bản lần thứ nhất vào năm 1985 tại Orange County, CA.
- Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ trung thực, hiện đại, truyền đạt được chân lý của Chúa. Lúc đầu, Vietnamese Bible Inc. do các Mục Sư Baptist Việt Nam khởi xướng, nhưng sau đó dự án đã mở rộng và mời các Mục Sư thuộc các giáo phái Tin Lành khác nhau cùng cộng tác. Thành phần của Ủy Ban Phiên Dịch hiện nay gồm có các Mục Sư Lê Hoàng Phu, Võ Ngọc Thiên Ân, Trần Ðào, Nguyễn Hữu Cương, Mai Hữu Phước, Nguyễn Minh Thắng, Nguyễn Xuân Hà và bà Phạm Xuân.
- Năm 1994, toàn bộ Thánh Kinh do Mục Sư Lê Hoàng Phu và ba dịch giả phiên dịch đã được Thánh Kinh Hội Quốc Tế (International Bible Soceity - IBS) và Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành vào tháng 6/1994 tại Anaheim, California.
- Năm 1994, Tòa Tổng Giám Mục tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất bản 30.000 Thánh Kinh Tân Ước. Công trình này được thực hiện bởi Linh Mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh Mục Trần Phúc Nhân. Việc xuất bản Kinh Thánh do cơ quan Thánh Kinh Hội Quốc Tế (IBS) bảo trợ.
- Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đã được tái bản tại Ðà nẵng (Việt Nam). Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Ðây là bản Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành Việt Nam được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam.
- Năm 1996, Phúc Âm Giăng do Mục Sư Ðặng Ngọc Báu dịch từ nguyên văn Hy Lạp đã xuất bản tại San Diego, CA. Bản dịch mới này được dùng làm tài liệu chứng đạo cho thân hữu.
- Hiện nay, ngoài dự án phiên dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ của Vietnamese Bible Inc., một vài Mục Sư Việt Nam cũng đang thực hiện một đề án khác để phiên dịch một bản Kinh Thánh mới theo nguyên tắc bản dịch New International Version (NIV) trong Anh Ngữ.
Về phía Giáo Hội Tin Lành, vào năm 1890, M. Bonnet, Giáo Sư của trường Ngôn Ngữ Ðông Phương tại Paris (Paris School of Oriental Languages), đã dịch Phúc Âm Luca sang tiếng Việt. Khi dịch Phúc Âm Luca, Giáo sư Bonnet đã dùng bản Kinh Thánh Pháp văn Ostervald để dịch. Sau khi dịch xong, Phúc Âm Luca đã được Thánh Kinh Hội Anh Quốc (British & Foreign Bible Society - BFBS, Paris) xuất bản tại Paris. Năm 1898, Phúc Âm Luca tái bản lần đầu tiên.
Bản dịch nầy do Linh Mục Albert Schlicklin thực hiện, dịch từ bản Kinh Thánh La Tinh Vulgate, là bản Kinh Thánh được Vatican chính thức công nhận. Linh Mục Albert Schlicklin thường được các học giả Công Giáo Việt Nam gọi là Cố Chính Linh. Bản dịch Kinh Thánh trên được các giáo sỉ thuộc Hội Thừa Sai Paris (Société des Missions Étrangères de Paris) tại Hong Kong phát hành.
Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà Giáo Sĩ William C. Cadman, Giáo Sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có: cụ Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.
Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Ðức, Ðại Hàn và Việt Nam. Ðây là bản Kinh Thánh Việt Ngữ được ấn hành và xử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5.000 - 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay.
Năm 1991, Vietnamese Bible Inc. tại Midland, TX. đã phát hành thử nghiệm một bản dịch bốn sách Phúc Âm. Bản thảo Tân Ước cũng đã thực hiện xong, hiện nay đang được hiệu đính. Toàn bộ Tân Ước dự tính sẽ in trong tháng 2/1996.
Hiện nay, đề án dịch toàn bộ Kinh Thánh của Vietnamese Bible Inc. vẫn đang tiếp tục thực hiện.
Vào năm 1973, Thánh Kinh Hội Quốc Tế đã tổ chức một khóa huấn luyện cho các nhân viên phiên dịch Kinh Thánh tại Ðà Lạt. Ðại diện của các giáo phái Tin Lành và Công Giáo đã đến tham dự. Các đại biểu đã bàn thảo về một đề án phiên dịch Kinh Thánh dựa theo khuôn mẫu bản dịch Jerusalem là bản dịch mà cả hai giáo hội Công Giáo và Tin Lành cùng phối hợp thực hiện.
Năm 1974, Mục Sư Nguyễn Thỉ và Mục Sư Trần Ðào đại diện cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam bàn thảo với quí Linh Mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh Mục Trần Phúc Nhân về những đường lối và nguyên tắc thực hiện. Rất tiếc, biến cố 30/4/1975 xảy ra, các Mục Sư Nguyễn Thỉ và Trần Ðào ra đi, hai Linh Mục Công Giáo ở lại tiếp tục dự án phiên dịch Kinh Thánh. Năm 1985 Thánh Kinh Tân Ước được dịch xong và đã được Tòa Tổng Giám Mục Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh phát hành vào năm 1994 với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS)
III. Tương Lai:
Theo một thống kê mới đây, trong số gần 6.000 ngôn ngữ hiện đang được xử dụng trên thế giới, tiếng Việt là một trong 20 ngôn ngữ được dùng phổ thông nhất.
Tính đến cuối năm 1995, dân số Việt Nam là 76 triệu người. Ngoài ra còn có hơn hai triệu người Việt tại hải ngoại. Như vậy, đã có khoảng 78 triệu người xử dụng tiếng Việt. Trong tương lai, số người xử dụng Việt Ngữ tiếp tục tăng nhanh, do đó nhu cầu cần có một bản dịch Thánh Kinh Việt Ngữ chuẩn xác, trong sáng, lưu loát là một vấn đề quan trọng mà Hội Thánh Việt Nam cần phải lưu tâm.
Hiện nay, việc dịch Kinh Thánh trên thế giới có ba khuynh hướng chính:
1. Khuynh hướng thứ nhất là phương pháp dịch từng chữ một (word-for-word). Nguyên tắc căn bản của phương pháp này là các dịch giả phải tìm từ hoặc ngữ - đồng nghĩa với từ, ngữ trong nguyên bản. Cấu trúc mệnh đề và văn mạch cũng phải theo sát nguyên bản. Nhược điểm của phương pháp này: do dịch giả phải dịch sát nghĩa của từ ngữ trong nguyên bản nên cách hành văn trong bản dịch thường không phổ thông và dẫn đến khó hiểu. Ưu điểm của phương pháp này là diễn đạt gần trọn vẹn ý nghĩa của nguyên bản. Trong các bản dịch sang Anh Ngữ, tiêu biểu cho phương pháp này là bản dịch King James (KJV). Bản dịch Việt Ngữ theo phương pháp này là bản dịch 1952.
2. Khuynh hướng thứ hai, các dịch giả dùng những từ ngữ và thành ngữ phổ thông để diễn đạt ý chính của nguyên tác cách lưu loát và dễ hiểu. Phương pháp này có ưu điểm nổi bật là đọc giả khi đọc bản dịch, họ có thể dễ dàng thấu đáo được nội dung bản văn. Tuy nhiên, khuyết điểm của phương pháp này là bản dịch nhiều khi không thể hiện hết tất cả ý nghĩa khác trong nguyên bản. Trong các bản dịch Anh Ngữ, tiêu biểu cho khuynh hướng này là bản dịch The Living Bible (LBV).
3. Khuynh hướng thứ ba chú trọng vào ưu điểm của hai phương pháp trên. Theo phương pháp này, các học giả vừa tìm cách dịch uyển chuyển nhưng cố gắng sao cho từ ngữ trong bản dịch phải vừa phổ thông, vừa chính xác, trung thực với nguyên bản, đồng thời cách hành văn phải lưu loát, cập nhật, dễ đọc, dễ hiểu. Tiêu biểu cho bản dịch theo khuynh hướng này là bản Kinh Thánh New International Version (NIV). Về Việt Ngữ, hiện nay chưa có bản Kinh Thánh nào hoàn tất theo phương pháp này.
Mặc dầu có ba khuynh hướng chính nêu trên, nhưng trên thực tế khi tiến hành dịch thuật Kinh Thánh, tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau, các dịch giả có khi uyển chuyển dùng hai hoặc thậm chí cả ba phương pháp cùng một lúc.
Nhìn về tương lai, để góp phần mở mang công việc Chúa, Cộng Ðồng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nên thực hiện những dự án sau:
Theo một thống kê mới đây, trong số gần 6.000 ngôn ngữ hiện đang được xử dụng trên thế giới, tiếng Việt là một trong 20 ngôn ngữ được dùng phổ thông nhất.
Tính đến cuối năm 1995, dân số Việt Nam là 76 triệu người. Ngoài ra còn có hơn hai triệu người Việt tại hải ngoại. Như vậy, đã có khoảng 78 triệu người xử dụng tiếng Việt. Trong tương lai, số người xử dụng Việt Ngữ tiếp tục tăng nhanh, do đó nhu cầu cần có một bản dịch Thánh Kinh Việt Ngữ chuẩn xác, trong sáng, lưu loát là một vấn đề quan trọng mà Hội Thánh Việt Nam cần phải lưu tâm.
Hiện nay, việc dịch Kinh Thánh trên thế giới có ba khuynh hướng chính:
1. Khuynh hướng thứ nhất là phương pháp dịch từng chữ một (word-for-word). Nguyên tắc căn bản của phương pháp này là các dịch giả phải tìm từ hoặc ngữ - đồng nghĩa với từ, ngữ trong nguyên bản. Cấu trúc mệnh đề và văn mạch cũng phải theo sát nguyên bản. Nhược điểm của phương pháp này: do dịch giả phải dịch sát nghĩa của từ ngữ trong nguyên bản nên cách hành văn trong bản dịch thường không phổ thông và dẫn đến khó hiểu. Ưu điểm của phương pháp này là diễn đạt gần trọn vẹn ý nghĩa của nguyên bản. Trong các bản dịch sang Anh Ngữ, tiêu biểu cho phương pháp này là bản dịch King James (KJV). Bản dịch Việt Ngữ theo phương pháp này là bản dịch 1952.
2. Khuynh hướng thứ hai, các dịch giả dùng những từ ngữ và thành ngữ phổ thông để diễn đạt ý chính của nguyên tác cách lưu loát và dễ hiểu. Phương pháp này có ưu điểm nổi bật là đọc giả khi đọc bản dịch, họ có thể dễ dàng thấu đáo được nội dung bản văn. Tuy nhiên, khuyết điểm của phương pháp này là bản dịch nhiều khi không thể hiện hết tất cả ý nghĩa khác trong nguyên bản. Trong các bản dịch Anh Ngữ, tiêu biểu cho khuynh hướng này là bản dịch The Living Bible (LBV).
3. Khuynh hướng thứ ba chú trọng vào ưu điểm của hai phương pháp trên. Theo phương pháp này, các học giả vừa tìm cách dịch uyển chuyển nhưng cố gắng sao cho từ ngữ trong bản dịch phải vừa phổ thông, vừa chính xác, trung thực với nguyên bản, đồng thời cách hành văn phải lưu loát, cập nhật, dễ đọc, dễ hiểu. Tiêu biểu cho bản dịch theo khuynh hướng này là bản Kinh Thánh New International Version (NIV). Về Việt Ngữ, hiện nay chưa có bản Kinh Thánh nào hoàn tất theo phương pháp này.
Mặc dầu có ba khuynh hướng chính nêu trên, nhưng trên thực tế khi tiến hành dịch thuật Kinh Thánh, tùy theo từng hoàn cảnh khác nhau, các dịch giả có khi uyển chuyển dùng hai hoặc thậm chí cả ba phương pháp cùng một lúc.
Nhìn về tương lai, để góp phần mở mang công việc Chúa, Cộng Ðồng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nên thực hiện những dự án sau:
- Hoàn tất bản dịch của Vietnamese Bible Inc.
- Thực hiện một bản dịch mới tương tự bản dịch NIV trong Anh Ngữ.
- Hiệu đính bản dịch 1926.
- Phối hợp với Thánh Kinh Hội Quốc Tế đưa toàn bộ những bản dịch Việt Ngữ đã có, cùng với một số bản Anh Ngữ phổ thông, các bản cổ văn bằng Hebrew và Greek, Thánh Kinh Tự Ðiển, Kinh Tiết Sách Dẫn vào Compact Disk (CD).
Công trình này sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực và lâu dài trong việc phổ biến và nghiên cứu lời Chúa trong tương lai. Hiện nay số sinh viên đã tốt nghiệp Computer Engineer hoặc Computer Science trong các Hội Thánh Việt Nam tại Hoa Kỳ lên đến hàng trăm người. Nếu Hội Thánh có dự án cụ thể và kêu gọi những anh chị em này đóng góp khả năng thì công trình này có thể thực hiện được.
- Cần có một web site để phổ biến Thánh Kinh Việt Ngữ trên Internet cho người Việt khắp thế giới.
- Phổ cập những chương trình huấn luyện Kinh Thánh Căn Bản và Sơ Cấp cho các tín hữu. Phát triển những khóa học Kinh Thánh Ðoản Kỳ, Thánh Kinh Mùa Hè, Thánh Kinh Tiểu Học Ðường cho thế hệ trẻ tại nhiều địa phương.
- Nâng cao chất lượng đào tạo người hầu việc Chúa qua các chương trình trung cấp, đại học và cao học.
- Ðào tạo những học giả Thánh Kinh, những nhà Thần Học cho Hội Thánh Việt Nam. Cầu nguyện và hổ trợ để Hội Thánh Việt Nam sớm có những đày tớ Chúa có bằng Ph.D. về Thần Học và Kinh Thánh.
- Soạn thảo và phiên dịch thêm những sách giải nghĩa Kinh Thánh Việt Ngữ.
- Phác thảo những dự án cần thiết nhằm tận dụng những phương tiện sách báo, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, âm nhạc, kịch nghệ, ... để phổ biến lời Chúa cho dân tộc Việt Nam.
- Hổ trợ cho các dự án phiên dịch Kinh Thánh sang các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
Trong quá khứ, tiên tri Ô-sê ghi nhận rằng: Dân ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết. (Ô-sê 4:6).
Ngày nay hằng triệu người Việt đang bị hư mất vì không biết lời Chúa. Tiếp bước những thế hệ hầu việc Chúa tiền phong, ước mong mỗi người chúng ta hãy làm hết sức mình để lời Chúa sớm được rao truyền khắp mọi miền trên quê hương cũng như tại các cộng đồng người Việt khắp năm châu.
Mong rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ vui mừng khi có hằng triệu người Việt hiểu rõ lời Chúa và bằng lòng tiếp nhận Chúa.
Phước Nguyên
Tháng 1/1996
Trích Báo Linh Lực
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét