Khí tượng học
Nói về Khí tượng học, chúng ta biết về vòng tuần hoàn của nước. Nước theo sông chảy ra biển, nước biển bốc hơi và được gió đưa về đất liền, biến thành mưa và rơi xuống. Đây là phát hiện của khoa học thế kỷ 20, thế mà khoảng 900 trước Công nguyên, Sa-lô-môn đã viết bài thơ: "Gió thổi về hướng nam kế sang hướng bắc. Nó xây đi vần lại không ngừng, rồi trở về vòng cũ của nó. Mọi sông đều đổ ra biển song không hề làm đầy biển, nơi mà sông suối ra đi, nơi đó nó lại chảy về lại... (Sách Truyền Đạo, chương 1 câu 6-8). Nếu đã ngạc nhiên về sự hiểu biết của Sa-lô-môn trước đây 30 thế kỷ, chúng ta sẽ càng kính nể hơn sự tỏ tường của Ê-li-hu là người sống cách đây bốn ngàn năm: "Đức Chúa Trời là cực đại, chúng ta không thể biết được Ngài. Số năm Ngài không ai đếm được. Vì Ngài thâu hấp các giọt nước. Rồi từ sa mù mà giọt nước ấy biến ra mưa. Có ai hiểu được cách mây giăng ra và (hiểu được) tiếng (sấm sét) lôi đình của nhà trại Ngài... " và "Ngài ém nước trong các áng mây Ngài. Mà các áng mây không bị bứt ra vì nước ấy" (Sách Gióp chương 36 câu 26, 27, chương 26 câu 8), Có một giáo sư tuyên bố trước sinh viên của mình: "Bây giờ khoa học đã phát triển, kỹ nghệ trở nên vô cùng hữu dụng, nhân loại chẳng cần đến Đức Chúa Trời nữa. Nếu muốn có mưa, các nhà khoa học đem máy bay lên không trung, rải hóa chất xuống đám mây là có mưa ngay. Cầu nguyện thì đến bao giờ mới có mưa?" Mọi người nghe đều cảm thấy có lý. Tuy nhiên có một sinh viên mạng dạn giơ tay xin hỏi: "Vậy thưa giáo sư, giả sử Đức Chúa Trời không làm ra đám mây và đem đám mây ấy đến những nơi cần có mưa, các nhà khoa học lấy mây ở đâu để làm mưa nhân tạo?" Há miệng mắc quai, xin chúng ta hình dung ra nét mặt lúng túng của vị giáo sư đáng thương kia. Nói về Hải dương học, mãi đến năm 1786, các nhà khoa học mới phát hiện ra các dòng hải lưu. Thế mà một ngàn năm trước công nguyên Vua Đa-vít đã viết trong Kinh Thánh: "Chim trời và cá biển cùng phàm vật gì lội đi các lối biển." (sách Thi thiên chương 8 câu 8.) Các lối biển có nghĩa là các đường đi trên biển hay các dòng hải lưu. Các con chim thiên di dựa và dòng hải lưu để bay xuống phương nam trú ngụ qua mùa đông. Các con cá hồi sinh ra ở trên núi, sống ở ngoài biển, cứ sau bốn năm nó lại theo dòng hải lưu để tìm cửa sông rồi bơi ngược theo dòng sông về núi để đẻ trứng. Điều ấy quả thật là sự kỳ diệu. Ông Gióp, một người sống cách đây 4 ngàn năm còn viết về các nguồn suối nước phun lên từ đáy biển: "Chớ thì ngươi có thấu đến nguồn của biển sao? há ngươi có bước dưới đáy của vực sâu chăng." (Sách Gióp chương 38 câu 16.). Hải dương học thế kỷ hai mươi cũng đã xác nghiệm hiện tượng kỳ lạ này. Cũng ông Gióp ấy, người chăn cừu tầm thường sống ở vùng Trung Cận Động sa mạc nóng hừng hực quanh năm, làm sao ông có thể biết được việc có những nơi trên thế giới được băng đá bao phủ một cách vĩnh cửu. Nếu lượng nước đá ở Nam Cực, Bắc Cực và Băng đảo (Greenland) tan ra, mực nước biển trên thế giới sẽ được nâng lên vài chục mét. Ông viết: "Nước đá bởi lòng của ai (mà sinh ra), ai đẻ ra sương móc của trời? Nước đóng lại nhu đá và ẩn bí, mặt vực sâu trở nên thành cứng..." (sách Gióp chương 38 câu 29-30). Thật chẳng có cách gì giải thích được sự hiểu biết của Gióp ngoài việc Đức Chúa Trời "mở óc" cho ông. Y học Nói về Y học, cho đến hai thế kỷ gần đây người ta không biết đến tầm quan trọng của việc vệ sinh dịch tễ. Khi đi tham quan các lâu đài lộng lẫy của vua chúa, chúng ta hãy để ý thấy xem có mấy buồng tắm? Ít lắm. Người ta không biết tầm quan trọng của việc làm sạch nơi ăn chốn ở, cách ly người bệnh, rửa tay sau khi động vô rác rưởi và xác chết. Người ta không biết đến sự nguy hại khi không uống nước nơi ú đọng hoặc ăn động vật đã chết. Người ta không biết cách trị bệnh phong, bệnh hủi , không biết cách kiêng cữ sinh lý khi phụ nữ có kinh hay sau khi sinh đẻ v.v... Tất cả những thực hành trên đã được chép trong Kinh Thánh cách đây 3500 năm. Kinh Thánh chẳng nói gì về vi trùng, vi khuẩn, nhưng nếu ai đọc và làm theo Kinh thánh sẽ được đảm bảo sức khỏe một cách khoa học.
Vật lý Về vật lý, chúng ta biết về hai định luật căn bản về năng lượng. Định luật thứ nhất: "Năng lượng không tự nhiên sinh ra không tự nhiên mất đi nó chỉ biến từ dạng này sang dạng khác và tổng số năng lượng không biến đổi". Định luật thứ hai: "năng lượng chuyển từ dạng cấp cao sang dạng cấp thấp, ngày càng trỏ nên ít hữu dụng hơn". Hai định luật này cho biết bốn sự thật về thế giới xung quanh chúng ta: 1)Tổng năng lượng đã có ngay từ ban đầu trong trạng thái cao cấp nhất. Từ đó đến nay chẳng có một nguồn năng lượng mới nào được tạo nên. 2)Thế giới mà chúng ta quan sát thấy đang ở trong một quá trình thoái hóa chứ không tiến hóa. 3) Sự thoái hóa chứng minh cho một sự bắt đầu hoàn hảo. 4)Vũ Trụ và Sinh vật đang tồn tại nhờ một nguồn năng lượng từ bên ngoài, Kinh Thánh khẳng định cả bốn sự thực ấy. "Ấy vậy, trời đất và muôn vật đã được dựng xong rồi. Ngày thứ bảy Đức Chúa Trời làm xong các công việc" (sách Sáng Thế Ký chương 2 câu 1). "Muôn vật bởi Ngài dựng nên, chẳng có chi đã làm nên mà không bởi Ngài" (Sách Giăng chương 1 câu 2). "Muôn vật được dựng nên trong Ngài, bất luận (tinh tú) trên trời hay (vật thể) dưới đất, vật thấy được (bằng mắt) hay không thấy được (như điện tử, hạt nhân... hoặc thế giới thần linh bí ẩn) đều bởi Ngài và vì Ngài mà được dựng nên cả" (sách Cô-lô-sê chương 1 câu 16), Các câu Kinh Thánh trên khẳng định là Đức Chúa Trời đã kết thúc chương trình tạo hóa, kết thúc một cách trọn vẹn, toàn hảo. Từ thời điểm ấy đến nay chẳng dạng năng lượng và vật chất nào mới xuất hiện, hoặc thêm vô. Thỉnh thoảng người ta tuyên bố mới phát hiện ra loài vật này hay ngôi sao kia chẳng qua là chúng vẫn tồn tại ngoài sự hiểu biết của con người. Không những Ngài dựng nên chúng nhưng còn khiến chúng tồn tại mặc dù năng lượng bị thoái hóa: "... Ngài có trước muôn vật và muôn vật đứng vững trong Ngài." (sách Cô-lô-sê chương 1 câu 17. Trong Kinh Thánh còn có câu khẳng định rằng tất cả các tạo vật sẽ trở nên già cỗi, kể cả vũ trụ: " Thuở xưa Chúa lập nền của Trái Đất, các tầng trời cũng là công việc của tay Chúa. Trời đất sẽ bị hư hại, song Chúa hằng còn. Trời, Đất sẽ cũ mòn như áo sống. Chúa sẽ đổi trời đất như cái áo và nó sẽ bị biến thay. Song Chúa không hề biến cải, các năm của Chúa không hề cùng." (Sách Thi-thiên chương 102 câu 25-27). Thế giới trở nên già cỗi, không những vì năng lượng trở nên vô dụng theo thời gian nhưng còn vì tội lỗi của con người. Kinh Thánh cho biết rằng muôn vật đang than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay, mong được giải cứu khỏi sự hư nát (Rô-ma 8:19:22). Tuy nhiên xin chúng ta đừng tuyệt vọng, khi Đức Chúa Trời hoàn tất chương trình cứu chuộc con người, Ngài cũng sẽ sáng tạo ra Trời mới và Đất mới cho chúng ta sinh sống phước hạnh. Sau đây là lời của Giăng, một môn đồ của Chúa Giê-su: "Đoạn tôi thấy Trời Mới và Đất Mới, vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi và biển cũng không còn nữa ... Đấng ngồi trên ngôi phán rằng: 'Ta sẽ làm mới lại hết thảy muôn vật'" (sách Khải Huyền chương 21 câu 1,5) Chúng ta có thể hỏi, mọi sự sẽ trở nên già nua và mất dần năng lượng hữu dụng, vậy Đức Chúa Trời thì sao? Khi xem một bức tranh cổ của các họa sĩ tôn giáo Âu châu, chúng ta thường thấy Đức Chúa Trời trong hình ảnh một ông cụ râu tóc bạc phơ, áo dài bay phấp phới trong đám mây. Nhưng đó là sự minh họa sai lầm. “Chúa chẳng hề biến cải các năm của Chúa không hề cùng...". Chúa là Đấng Tạo Hóa là nguồn năng lượng vô biên, các định luật tự nhiên do Ngài đặt ra cho tạo vật, còn bản thân Ngài là Đấng Sáng Tạo, chẳng có luật nào có thể hạn chế, đóng khung được Ngài. Ví dụ rất đơn giản Chúa Giê-su đi bộ trên biển mà không chìm (sách Ma-thi-ơ chương 14 câu 25), quở mắng gió bão làm sóng yên biển lặng (sách Ma-thi-ơ chương 8). Chúa đặt tay trên người hủi mà không bị lây (Sách Ma-thi-ơ chương 8 câu 3). Chúa đứng trong lò lửa nóng gấp bảy lần bình thường mà không cháy (sách Đa-ni-en chương 3 câu 25). Chúa làm cho Mặt Trời không lặn, hay nói một cách khoa học hơn là Trái Đất ngừng quay một ngày mà chẳng ai bay vào vũ trụ vì quán tính. (Sách Giô-suê chương 10). Chúa làm cách nào chẳng ai biết, công việc của Chúa không phản khoa học nhưng vượt trên tri thức của loài người. Chúng ta nên nhớ rằng: Kinh Thánh không phải là tập san khoa học nhưng là văn tự ghi lại sự kiện lịch sử với chủ đề tâm linh: Tội lỗi con người và chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Trong dòng đầu tiên của Kinh Thánh có ghi: "Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.". Vậy Đức Chúa Trời lấy vật liệu từ đâu? Muốn chế tạo xe hơi phải có sắt thép, nhựa và cao su... Kinh Thánh chẳng dấu diếm hay nói quanh co việc này, nhưng khẳng định rằng Đức Chúa Trời sáng tạo từ chỗ chẳng có gì cả. Điều ấy thật vô lý, nếu như chúng ta không biết đến khả năng của Ngài. Chắc chúng ta còn nhớ vật chất có thể biến thành năng lượng (phản ứng nhiệt hạch) và ngược lại năng lượng có thể biến thành vật chất (qua máy gia tốc cực mạnh gọi là cosmotron). Năng lượng là một sự vô hình, vô thể. Trong chân không cũng tồn tại năng lượng. Năng lượng đến từ Đức Chúa Trời, nguồn năng lượng vô biên và vĩnh cửu. Đức Chúa Trời có thể khiến một phần năng lượng của Ngài trở nên vật chất (trời, đất và nước) và một phần năng lượng của Ngài biến thành ánh sáng. Dù một phần năng lượng đã biến thành vật chất và ánh sáng, Ngài chẳng vì thế mà yếu đi hoặc phải ăn uống tẩm bổ để lấy lại sức. Điều này tương tự như việc một con muỗi đang đậu trên một quả núi tự nhiên bay đi, quả núi ấy chẳng vì thế mà nhẹ đi mấy gam. Trong thế kỷ hai mươi, người ta biết đến cấu tạo của vật chất, biết đến các phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt nhân, hạt Gam-ma, hạt Bê-ta, hạt Phô-tôn là những thứ mắt thường không thể thấy. Có hạt nhỏ đến mức mà dụng cụ quang học điện tử cũng phải chịu bó tay. Người ta biết đến nhờ quan sát hiệu quả của nó trên các hạt khác. Thế mà cách đây hai nghìn năm, tác giả của sách Hê-bơ-rơ viết rằng, bởi đức tin chúng ta biết rằng "thế gian đã được làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi các vật bày ra (sờ sờ trước mắt) đó đều chẳng phải từ các vật (có thể) thấy được mà đến." (sách Hê-bơ-rơ chương 11 câu 3) Câu Kinh Thánh này cho biết hai điều. Thứ nhất khẳng định việc Đức Chúa Trời tạo ra trời đất và muôn vật từ chỗ chẳng có gì cả. Thứ hai khẳng định rằng thế giới vật chất hữu hình được tạo nên bởi các hạt vô hình, quá nhỏ cho mắt thường quan xát được. Đây phải chăng là kiến thức vật lý nguyên tử hiện đại hay sự "mở óc" cho tôi tớ Chúa cách đây gần hai nghìn năm. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét