10/01/2013

ĐỨC CHÚA TRỜI HƯỚNG DẪN TÌNH HÌNH THẾ GIỚI ĐỂ HOÀN THÀNH MỤC ĐÍCH CỦA NGÀI

Để hoàn thành mục đích của Ngài trên đất này, Đức Chúa Trời cần phải hướng dẫn tình hình chính trị, toàn bộ tình hình chính trị trên đất này đều ở dưới sự tể trị của Ngài; trong hai ngàn năm sau Chúa đã có 4 sự kiện lớn:
1.   SỰ THIẾT LẬP ĐẾ QUỐC LA MÃ (31TC-476SC) 
Đế quốc La Mã được thiết lập bởi Sê-sa Au-gút-tơ khoảng năm 31 T.C, tức là trước khi Đấng Christ được sinh ra hơn 30 năm. Trong khoàng bốn trăm năm, đế quốc La Mã đã hoàn tất 4 điều:
  • Làm cho tiếng Hi Lạp trở thành ngôn ngữ quốc tế: Tiếng Hy Lạp cổ là một trong những ngôn ngữ phong phú, giàu ý nghĩa, hàm súc, có tính phân loại cao… Trong khoảng 300 thống trị thế giới cổ đại, A-lịch-sơn Đại đế đã làm cho tiếng Hy Lạp trở thành một ngôn ngữ phổ biến thời đó và đã được người La Mã tiếp tục sử dụng. ngôn ngữ này đã được các sứ đồ dùng để viết Kinh Thánh và truyền bá Phúc âm khắp đế quốc La Mã.
Tượng Sê-sa Au-gú-tơ
  •  Thống nhất tất cả các nước thành một đế quốc: Đế quốc La Mã Từ thế kỷ thứ 1 TCN đến năm 476 là thời kỳ phát triển rực rỡ của La Mã bằng việc bành trướng lãnh thổ, Đế quốc La Mã có lãnh thổ hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải. Trang wikipedia.org cho biết: Lần lượt các vùng lãnh thổ như, Hy Lạp (146 TCN), cùng với lãnh thổ Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Palestine  Ai Cập bị sát nhập vào Đế quốc La Mã. Trong thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 2, Đế quốc La Mã phát triển cực thịnh, lãnh thổ rộng lớn, các đô thị của La Mã được xây dựng và để lại cho đến ngày nay, như Londinium, (London ngày nay), Lucdium, (Lyon ngày nay), Köln, Strasburg, Viên...
  • Xây dựng đường cao tốc: Đế quốc La Mã cũng đã xây dựng một mạng lưới giao thông hiện đại. theo http://www.voer.edu.vn: Đế chế La Mã đã xây dựng những con đường La Mã lát đá thẳng chạy suốt châu Âu và Bắc Phi, để hỗ trợ cho các chiến dịch quân sự của họ. Thời đỉnh cao Đế chế La Mã được kết nối với 29 tuyến đường chính chạy từ Rome và có 78,000 kilômét hay 52,964 dặm La Mã đường lát đá. (xem). Nhờ vào hệ thống giao thông thủy bộ hiện đại cộng với sự thống nhất, hòa bình của một đế quốc rộng lớn, sứ đồ Phao-lô có thể đi khắp các thành phố, các tỉnh lớn của đế quốc La Mã để Rao giảng phúc âm.
Đế quốc La Mã thời các Sứ đồ
  • Giữ một trật tự rất hòa bình để lan rộng phúc âm. Theo wikipedia.org Nền Hòa bình La Mã[1] (tiếng Latinh: Pax Romana) là một thời kỳ lâu dài khi Đếquốc La Mã tương đối hòa bình và quân đội ít bành trướng trong các thế kỷ 1  2. Do Hoàng đế Augustus đã mở nền thái bình, đôi khi đây được gọi là Thái bình Augustus (Pax Augusta). Nền thái bình kéo dài khoảng 207 năm (từ năm 27 trước Công nguyên cho đến năm 180).[2] Dù Augustus là người mở nền thái bình, Quân đội La Mã liên tiếp phải chinh chiến với các bộ tộc ở biên cương dưới thời ông[3]. Nhiều sử gia coi nền thái bình ấy và sự thịnh vượng mà nó đem lại là những lợi ích chủ yếu của chính quyền La Mã buổi ấy. Những lợi ích này đặc biệt đáng kể trong giai đoạn "Năm vị hoàng đế anh minh". Các hoàng đế này ưu đãi các tầng lớp thống trị, hợp lực với Viện Nguyên lão, giữ yên Đế quốc.
Martin Luther (1483-1546)
2. CUỘC CẢI CHÁNH VÀ SỰ KHÁM PHÁ TÂN THẾ GIỚI ĐÃ GIAIR PHÓNG TÂM TRÍ CON NGƯỜI 
    Năm 1517 Martin Luther được dấy lên để khôi phục lẽ thật về sự xưng công chính bởi đức tin. Trang wikipedia.org cho thấy: Luther đã thách thức thẩm quyền của giáo hoàng khi rao giảng niềm xác tín rằng Kinh Thánh là nguồn vô ngộ (không sai lầm) duy nhất của thẩm quyền tôn giáo, và địa vị tư tế được dành cho tất cả tín hữu (không dành riêng cho giới tăng lữ).[2] Theo Luther, con người chỉ có thể được cứu rỗi bởi sự ăn năn thật, và bởi đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu là Đấng Cứu thế (Messiah), mà không cần vai trò trung gian của giáo hội. Thần học Luther là ý thức hệ soi dẫn cuộc Cải cách Kháng Cách, và làm thay đổi dòng lịch sử nền văn minh phương Tây. Cũng trong khoảng thời gian đó, bởi sự tể trị của Đức Chúa Trời, Columbus đã khám phá ra châu Mĩ (1492) mở ra một thời kỳ mới cho nhân loại. Chính cuộc cải chánh và sự khám phá ra vùng đất mới đã giải phóng tâm trí con người khỏi sự cầm tù của giáo hội Công giáo.
M. Luther đóng 95 luận đề trên cửa nhà thờ Wittenberg 31-10-1517
3. NGƯỜI ANH ĐÁNH BẠI NGƯỜI TÂY BAN NHA
  Năm 1534 Vua HenryVIII Nước Anh tuyên bố li khai khỏi Giáo hội Công giáo. Theo wikipedia.org: Cuộc cải cách tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua HenryVIII. Nhà vua muốn “hủy bỏ hôn nhân” với vợ là Catherine của Aragon để kết hôn chính thức với Anne Boleyn, với lý do là hoàng hậu không có hoàng tử để thừa kế ngai vàng, nhưng Giáo hoàng Clement VII từ khước. Cùng lúc, nhà vua nhận thấy sự cần thiết và những lợi ích chính trị và kinh tế khi ly khai khỏi Công giáo Rô-ma và thành lập Giáo hội Anh mà nhà vua là người đứng đầu giáo hội. Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua Henry VIII là “Lãnh đạo Tối Cao duy nhất trên đất” của Giáohội Anh. Các đạo luật khác như luật giải thể tu viện năm 1542 mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công Giáo vào tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc. Điều này tạo nên các nguồn vật chất lớn lao hỗ trợ cho giáo hội mới vừa độc lập trên lãnh thổ nước Anh, dưới quyền cai trị của một quân vương.
Henry VIII of England
Đến Năm 1553 Mary lên ngôi Nữ hoàng Anh (Mary hiếu huyết) và kết hôn với vua Philips nước Tây Ban Nha. Sau khi kết hôn, bà nỗ lực đưa nước Anh trở vế với Công Giáo. Bà đã lập giàn hỏa thiêu giết hại rất nhiều người kháng cách. Đầu năm 1588 bà bị bênh và chết khi đang mang thai. Em gái cùng cha khác mẹ của bà là Elizabeth lên nối ngôi khôi phục lại đức tin kháng cách. Cũng trong năm này, thủy quân Anh đánh bại thủy quân Tây Ban Nha chấm dứt thế thượng phong của đế quốc Tây Ban Nha và uy quyền của Giáo hội Công giáo. Với ý nghĩa trọng đại, đại thắng Gravelines của Hải quân Anh năn 1588 được ghi dấu cho thời kỳ vàng son của đất nước dưới triều Nữ hoàng Elizabeth I. Chiến tích ấy là khởi điểm cho thế thượng phong trên biển của nước Anh, và bảo tồn đức tin Kháng Cách.
Trận Gravelines (1588)
Với thắng lợi của Hải quân Anh, trậnGravelines được coi là một trong những trận hải chiến nổi bật nhất trong lịch sử thế giới. Từ lúc đó nước Anh trở nên thế lực chính trên toàn thế giới; Đức Chúa Trời sử dụng điều này để lan rộng phúc âm của Ngài; phúc âm được đem đến mọi ngóc ngách của tất cả các châu lục, đặc biệt là châu Á, châu Phi và châu Úc.
4. SỤ DẤY LÊN CỦA HOA KỲ (4/7/1776)  
    Đức Chúa Trời đã dấy lên Hoa Kì làm nước dẫn đầu và thế lực số một trên đất; đây là điều lớn thứ 4 của lịch sử, không vì Hoa Kì nhưng vì mục đích của Đức Chúa Trời nhằm đạt được người mới.
Hoa Kỳ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập
Ngày 4/7/1776 bản Tuyên ngôn đọc lập của Hoa Kỳ do tổng thông đầu tiên là Thomas Jefferson đọc đã thống nhất 13 thuộc địa. Đến cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã mở rộng đến TháiBình Dương,[10] và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.[11] Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ  Đệ nhất Thế chiếnđã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của Hoa Kỳ. Đệ nhị Thế chiến đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân, và là thành viên thường trực vĩnh viễn của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Là siêu cường duy nhất còn lại sau Chiếntranh lạnh, Hoa Kỳ được nhiều quốc gia nhìn nhận như là một thế lực quân sự, văn hóa, và kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới.[12] (theo http://vi.wikipedia.org)
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ
Là một quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất, ngôn ngữ trờ thành quốc tế ngữ của toàn thế giới, có nền dân chủ, tự do, luật pháp nghiêm minh, mọi người đều có quyền phát biểu tư tưởng, đua ra những học thuyết, những khám phá của mình về mọi lãnh vực: khoa học, kỹ thuật, tư tưởng, tôn giáo… Tại đây Sự Khôi Phục của Chúa mới có thể được phổ biến và lan rộng trên toàn thế giới. khôi phục lại các Lẽ Thật trong Kinh Thánh, dấy lên các Hội thánh địa phương khắp hoàn vũ, vì sự xây dựng Thân thể Đấng Christ tổng kết Giê-ru-sa-lem Mới.
HƯNG NGUYỄN



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét