Viết bởi Tiến-sĩ Martin Luther ngày 31 tháng 10 năm 1517 (Bản dịch viết bởi Tường Hân ngày 07-08-2003 tại Surrey,
British Columbia Canada)
Những luận-đề dự-thảo sau đây sẽ được thảo-luận tại thành-phố Wittenberg dưới sự
chủ-tọa của Linh-mục Martin Luther, Cao-học Văn-chương, và Tiến -sĩ Thần-học Bí-tích Sacred Theology, là Giảng-sư thực-thụ của cùng môn học tại bản trường, được
thúc-đẩy bởi lòng yêu-chuộng cùng sự ước-mong được trình-bày lẽ thật ra
ánh-sáng. Bởi vì cớ ấy, ông xin yêu-cầu những vị nào không thể đến tham-dự và
tranh-luận bằng lời với chúng tôi thì có thể dùng bài viết. Trong
danh Chúa Giê-xu Christ của chúng ta. A-men.
1. Khi Chúa Giê-xu Christ và là Chúa của chúng ta nói rằng
“Poenitentiam agite” tức: Các ngươi hãy ăn-năn, thì Ngài muốn rằng suốt cả cuộc
đời của người tin Chúa là một sự ăn-năn.
2. Từ-ngữ này không thể được hiểu như là nghi-thức (bí-tích) giải-tội
của Công-giáo, tức là sự xưng-tội và đọc kinh giải-tội như cách mà các linh-mục
đã làm.
3. Dầu vậy, từ-ngữ này không phải chỉ nói về sự ăn-năn bên trong
không thôi: không đâu, không có một sự ăn-năn bên trong nào mà lại không góp phần
vào sự làm chết đi những gì của xác-thịt.
4. Thế nên, hình-phạt [của tội-lỗi] vẫn còn tiếp-tục nếu sự
ghét-bỏ chính mình vẫn còn tiếp tục; bởi vì đây mới chính thực là sự ăn-năn bên
trong, và sự ăn-năn bên trong sẽ còn tiếp-tục cho đến khi chúng ta bước vào thiên-đàng.
5. Vị Giáo-hoàng không hề có ý-định xóa bỏ, và cũng không đủ sức
xóa bỏ bất-kỳ một hình-phạt nào, ngoại-trừ những hình-phạt mà ông đã áp-đặt, hoặc
bằng chính thẩm-quyền của mình, hoặc bằng thẩm-quyền của Giáo-luật.
6. Vị Giáo-hoàng không thể xóa được bất-kỳ một tội nào, trừ phi
bằng cách công-bố rằng tội ấy đã được Đức Chúa Trời xóa bỏ, và bằng cách chấp-nhận
sự tha-tội của Đức Chúa Trời; dầu vậy, để cho được chắc-chắn, vị Giáo-hoàng có
thể ban sự tha-tội trong những vụ nào đã được để riêng ra chờ sự phán-quyết của
ông. Nếu quyền ban cho sự tha-tội của ông trong những vụ ấy bị khinh-thường,
thì tội ấy vẫn hoàn-toàn chưa được tha.
7. Đức Chúa Trời không tha tội cho bất-kỳ người nào mà Ngài
không đồng-thời bắt-phục họ trở nên khiêm-nhường trong mọi mặt, và khiến người
phải chịu thuận-phục vị cha xứ của Ngài, tức vị linh-mục sở-tại.
8. Những giáo-luật về sự ăn-năn chỉ được áp-đặt trên người còn sống,
và theo như những giáo-luật ấy, chúng ta không nên áp-đặt một điều gì trên người
sắp chết.
9. Thế nên, Đức Thánh-Linh ngự trong vị Giáo-hoàng tỏ ra rất
nhân-từ với chúng ta, bởi vì trong những đạo-luật của ông , ông luôn xem những
điều-khoản nói về sự chết và về nhu-cầu là những trường-hợp ngoại-lệ.
10. Trong trường-hợp những người sắp chết, mà những linh-mục nào
lại để dành cách giải-tội theo như giáo-điều cho đến khi những người này vào
“ngục luyện-tội” , thì đó là những việc làm vô-tâm và độc-ác.
11. Việc đổi hình-phạt theo giáo-luật thành hình-phạt của ngục
luyện-tội rõ-ràng là một trong những giống cỏ lùng đã được gieo ra trong lúc
các vị giám-mục đang ngủ.
12. Trong thời-gian trước đây, những hình-phạt theo giáo-luật được
áp-đặt trước khi, chứ không phải được áp-đặt sau khi đã được tha tội, như là những
sự chứng-nghiệm về sự ăn-năn thật.
13. Người sắp chết được miễn tất-cả mọi hình-phạt khi họ qua đời;
vì họ xem như đã chết rồi đối với những giáo-luật, và có quyền được giải-thoát
khỏi những giáo-luật đó.
14. Sự lành-mạnh không toàn-hảo [của linh-hồn] , tức chúng tôi
muốn nói rằng, tình-yêu không toàn-hảo của người sắp chết mang đến sự sợ-hãi lớn
không thể tránh được; nếu tình-yêu đó càng ít , thì sự sợ-hãi càng lớn.
15. Sự sợ-hãi này cùng sự kinh-khiếp tự chúng đã đủ để tạo thành
hình-phạt của ngục luyện-tội, bởi vì điều ấy rất gần với sự kinh-khiếp của tuyệt-vọng.
16. Địa-ngục, ngục luyện-tội, và thiên-đàng có vẻ như khác-biệt
nhau một cách tương-tự như sự khác-biệt giữa tuyệt-vọng, gần tuyệt-vọng, và sự
bảo-đảm an-toàn.
17. Đối với những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội thì điều cần
có là sự kinh-khiếp nên giảm đi và tình yêu-thương phải tăng lên.
18. Chúng ta thấy điều có vẻ như không chứng-minh được, dù bằng
lý-luận hay bằng Kinh thánh, là những linh-hồn ấy ở ngoài tình-trạng được thưởng,
chúng tôi muốn nói là, tình-trạng tình yêu-thương được tăng thêm.
19. Còn nữa, điều chúng ta thấy có vẻ như không chứng-minh được
là họ, hay ít ra là tất-cả những linh-hồn ấy lại tỏ ra chắc-chắn, hoặc được cho
biết chắc về tình-trạng được phước của chính họ, mặc-dù chúng ta biết khá chắc-chắn
về việc này.
20. Thế nên, khi nói rằng “xóa-bỏ hoàn-toàn mọi hình-phạt”, thì
vị Giáo-hoàng không thực-sự có ý nói là “mọi hình-phạt” nhưng chỉ nói những
hình-phạt nào mà chính ông đã áp-đặt.
21. Thế nên, những người nào giảng về bùa giải-tội đều là sai, tức
những người nào nói rằng qua bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng thì một người sẽ được
giải-thoát khỏi mọi hình-phạt, và linh-hồn sẽ được cứu;
22. Trong khi đó vị Giáo-hoàng lại không xóa một hình-phạt nào
cho những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội, mà đáng lý ra theo giáo-luật, họ đã
phải trả trước rồi trong đời này.
23. Nếu bằng mọi cách nào có thể được để ban sự xóa sạch mọi
hình-phạt cho bất-kỳ ai dù tội ấy có như thế nào đi chăng nữa, thì điều chúng
ta biết chắc rằng sự xóa-tội này chỉ có thể ban được cho những ai toàn-hảo nhất,
tức là , chỉ cho một số người ít nhất.
24. Thế nên, điều ắt có và phải có là phần lớn người ta đã bị
đánh lừa bởi lời hứa lầm-lẫn về sự giải-thoát khỏi hình-phạt nghe rất kêu này.
25. Nói một cách tổng-quát, thẩm-quyền mà vị Giáo-hoàng có được
trên ngục luyện-tội, là chỉ giống như thẩm-quyền mà bất-kỳ một vị giám-mục, hay
một vị cha xứ có trong vòng địa-phận, hay giáo-xứ của họ, trong trường-hợp
riêng-biệt này.
26. Vị Giáo-hoàng làm một điều phải, khi người ban phát sự xóa-tội
cho những linh-hồn [ở trong ngục luyện-tội], không bởi quyền-năng của chìa khóa
ngục (mà chính người không có giữ) , nhưng bởi sự cầu thay.
27. Người ta đã giảng-dậy rằng ngay khi những đồng tiền rơi
leng-keng vào trong hộp tiền dâng, thì các linh-hồn sẽ bay ra khỏi [ngục luyện-tội]
28. Điều chắc-chắn là khi các đồng tiền rơi leng-keng vào trong
hộp tiền dâng, thì vật-chất và lòng tham vật-chất có thể tăng lên, nhưng kết-quả
sự cầu-thay của Hội-thánh nằm trong quyền-năng của chỉ riêng Đức Chúa Trời mà
thôi.
29. Nào ai biết được rằng có phải mọi linh-hồn trong ngục luyện-tội
đều muốn được chuộc ra khỏi nơi đó hay không, như trong huyền-thoại của thánh-đồ
Severinus và thánh-đồ Paschal.
30. Không một ai biết được chắc-chắn rằng sự ăn-năn của chính họ
là thành-thật hay không, đừng nói chi đến việc họ có nhậ n được sự xoá-tội
hoàn-toàn hay không.
31. Người thực-sự ăn-năn tội-lỗi đã thật hiếm rồi, mà người thực-sự
tin vào bùa giải-tội cũng hiếm tương-tự; nghĩa là những người như vậy cực-kỳ hiếm
có.
32. Họ sẽ bị rủa-sả đời-đời cùng với các thầy giáo của họ, là những
người tin rằng chính họ cảm thấy chắc-chắn về sự cứu-rỗi của mình bởi vì họ có
thư ân-xá.
33. Quý-vị phải cảnh-giác về những người nào nói rằng sự ân-xá của
vị Giáo-hoàng là quà tặng của Đức Chúa Trời lớn không tưởng được mà nhờ đó con
người được hòa-thuận lại với Đức Chúa Trời;
34. Bởi vì những “ân-điển của sự ân-xá” này chỉ quan-tâm đến những
hình-phạt về sự chuộc-tội theo giáo-điều, và những điều này do con người định
ra.
35. Họ giảng rằng không một giáo-lý Cơ-đốc nào dạy-dỗ rằng không
cần-thiết phải có sự ăn-năn cho những người nào định mua linh-hồn ra khỏi ngục
luyện-tội, hoặc định mua lời xưng-tội.
36. Mọi Cơ-đốc-nhân nào mà thực-sự ăn-năn đều có quyền được tha
các hình-phạt và xóa-tội hoàn-toàn, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
37. Mọi Cơ-đốc-nhân thật, dù còn sống hay đã chết, đều được dự-phần
trong mọi ơn-phước của Chúa Giê-xu Christ và của Hội-thánh; và điều này được
chính Đức Chúa Trời ban cho, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
38. Tuy-nhiên, sự xóa-tội và dự-phần [vào ơn-phước của Hội-thánh]
nào mà đã được vị Giáo-hoàng ban cho thì không ai có quyền khinh-rẻ, bởi vì như
tôi đã nói, chúng là sự công-bố của sự tha-tội thiên-thượng.
39. Thật là một điều khó-khăn nhất, cho ngay cả những nhà thần-học
sắc-bén nhất, là trong một lần, và cùng một lúc, tuyên-dương với dân-chúng sự
dư-dật của ân-xá và [sự cần-thiết ] phải có của ăn-năn thật.
40. Sự ăn-năn thật tìm-kiếm và yêu-mến hình-phạt, nhưng sự ân-xá
không nghiêm-chỉnh chỉ làm nhẹ đi hình-phạt, và khiến chúng trở nên bị ghét bỏ,
hay ít ra, tạo cơ-hội cho việc ấy [để ghét bỏ chúng].
41. Sự ân-xá bởi các thánh-đồ cần được giảng-dạy một cách dè-dặt,
vì sợ rằng dân-chúng có thể nghĩ một cách sai-lầm rằng điều này tốt hơn là những
việc lành khác của tình yêu-thương.
42. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng vị Giáo-hoàng không có ý-định
rằng người ta đem so-sánh dưới bất-cứ hình-thức nào việc mua sự ân-xá với việc
làm do lòng thương-xót.
43. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai giúp-đỡ kẻ nghèo-khó,
hay cho người đang cần-dùng vay mượn thì làm việc lành tốt hơn là mua giấy
ân-xá;
44. Bởi vì tình yêu-thương được sanh ra bởi những việc làm của
tình yêu-thương, và con người nhờ đó sẽ trở nên tốt hơn; nhưng con người không
trở nên tốt hơn bởi giấy ân-xá, mà chỉ được tự-do khỏi sự hình-phạt hơn .
45. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai thấy người khác đang có
nhu-cầu nhưng bỏ tránh xa và dùng [tiền của mình] mua sự ân-xá, thì người ấy
không phải mua được bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng, nhưng mua lấy sự thạnh-nộ của
Đức Chúa Trời.
46. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng trừ phi họ có nhiều hơn những
gì họ cần, họ bắt-buộc phải giữ lại những gì cần-thiết cho chính gia-đình họ,
và không được dùng phung-phí cho giấy ân-xá dưới bất-cứ hình-thức nào.
47. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng việc mua giấy ân-xá là vấn-đề
tự-ý, không phải là điều răn.
48. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng khi ban cho sự ân-xá, vị
Giáo-hoàng cần, và do đó, ông cũng mong-mỏi những lời cầu-nguyện khẩn-thiết của
họ dành cho ông hơn là những món tiền các Cơ-đốc-nhân này đem đến.
49. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng những sự ân-xá của vị
Giáo-hoàng là có ích, nếu họ không đặt niềm tin vào chúng, nhưng chúng
hoàn-toàn là có hại, nếu bởi vì cớ chúng mà họ mất đi lòng kính-sợ Đức Chúa Trời.
50. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng nếu vị Giáo-hoàng biết được
những thủ-đoạn vòi tiền của những người giảng-dạy về sự ân-xá, thì người sẽ ước
thà rằng ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter bị thiêu-huỷ thành tro bụi còn
hơn là để ngôi nhà này được dựng nên bằng da thịt, máu xương của bầy chiên người.
51. Cơ-đốc-nhân cần được dạy-dỗ rằng điều mà vị Giáo-hoàng ước-muốn
, và đồng thời cũng chính là bổn-phận của người, là phải đem tiền của chính
mình đi cho rất nhiều người khác mà trước đây đã bị những kẻ rao bán sự ân-xá dụ-dỗ
tiền-bạc, cho dù người phải bán đi ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter để làm
việc ấy.
52. Sự bảo-đảm cứu-rỗi nhờ thư ân-xá là vô-ích, ngay cả khi người
được ủy-nhiệm, không đâu, ngay cả khi chính vị Giáo-hoàng đặt linh-hồn của người
lên để bảo-đảm.
53. Những kẻ nào mà bưng-bít lời Chúa để hoàn-toàn không được
rao-giảng tại một số Hội-thánh hầu cho sự ân-xá được rao giảng ở những chỗ
khác, thì ấy là kẻ thù của Đấng Christ và của vị Giáo-hoàng.
54. Khi trong cùng một bài giảng mà người ta dùng thời-gian bằng
hay nhiều hơn để giảng về sự ân-xá so với thời-gian giảng lời Chúa, thì điều
này làm thương-tổn đến Lời của Đức Chúa Trời.
55. Ý-định của vị Giáo-hoàng bắt-buộc phải là, nếu sự ân-xá, vốn
là một việc rất nhỏ, được đón mừng bằng một tiếng chuông cùng một lần diễn-hành
và nghi-lễ, thì Phúc-âm của Chúa, chính là một điều thật vĩ-đại, phải được
rao-giảng với một trăm hồi chuông, một trăm lần diễn-hành và một trăm lần
nghi-lễ.
56. Những “bảo-vật của Hội-thánh” mà vị Giáo-hoàng đã dùng để
ban phát bùa giải-tội, đã không được nêu tên đúng mức và cũng không được biết đến
trong vòng dân-sự của Đức Chúa Trời.
57. Rằng chúng không phải là bảo-vật tạm-thời là điều rõ-ràng lắm,
bởi vì rất nhiều kẻ bán rao đã không ban những bảo-vật này ra một cách dễ-dàng
đâu, nhưng chỉ thâu-lượm chúng mà thôi.
58. Và chúng cũng không là những công-đức của Đấng Christ và của
các Thánh, bởi vì ngay cả khi không có vị Giáo-hoàng, thì những điều này trở
nên ân-điển cho con người bề trong, và là thập-tự-giá, sự chết, và địa-ngục cho
con người bề ngoài.
59. Thánh Lawrence nói rằng những bảo-vật của Hội-thánh là những
kẻ nghèo-khó của Hội-thánh, nhưng người nói vậy là theo như cách dùng ngôn-từ của
thời người đang sống.
60. Chúng tôi có thể nói một cách không cẩu-thả rằng chìa khóa của
Hội-thánh, mà đã được ban-cho bởi công-đức của Đấng Christ, chính là bảo-vật ấy;
61. Bởi vì điều chúng ta thấy rõ là để có thể xóa-bỏ những
hình-phạt và những trường-hợp được dành riêng cho người, thì thẩm-quyền của vị
Giáo-hoàng tự nó đã là đủ.
62. Bảo-vật thật của Hội-thánh là Phúc-âm chí-thánh của sự
vinh-hiển và ân-điển của Đức Chúa Trời.
63. Nhưng bảo-vật này lẽ tự-nhiên là đáng ghét nhất, vì nó khiến
kẻ đầu trở nên kẻ sau rốt.
64. Mặt khác, bảo-vật bùa giải-tội thì lẽ tự-nhiên là dễ chấp-nhận
nhất, vì nó khiến kẻ sau rốt trở nên kẻ đầu.
65. Thế nên, những bảo-vật của Phúc-âm là những cái lưới mà trước
đây họ quen dùng để đánh lưới những con người của sự giàu-có.
66. Còn bảo-vật của bùa giải-tội là những cái lưới mà bây giờ họ
dùng để đánh lưới những sự giàu-có của con người.
67. Những bùa giải-tội mà các thầy giảng kêu lên rằng ấy là “những
ân-điển vĩ-đại nhất”, thì đã được người ta biết quả là có như vậy, nếu chỉ nói
đến việc chúng góp phần vào sự gia-tăng lợi-lộc.
68. Nhưng thực ra chúng là những ân-điển nhỏ nhất so với ân-điển
của Đức Chúa Trời và sự đạo-đức của Thập-tự-giá.
69. Các giám-mục và cha xứ bắt-buộc phải công-nhận sự uỷ-nhiệm của
ân-xá bởi sứ-đồ bằng tất-cả lòng tôn-kính.
70. Nhưng họ còn bị bắt-buộc nhiều hơn thế nữa, là họ phải mở mắt
to để nhìn cho rõ, lắng tai nghe thật chăm-chú, vì e rằng những thầy giảng này
rao-giảng những giấc mơ riêng của họ thay vì rao giảng những gì theo sự uỷ-nhiệm
của vị Giáo-hoàng.
71. Người nào mà nói nghịch lại lẽ thật về sự ân-xá bởi sứ-đồ,
nguyện cho hắn bị tuyệt-thông (a-na-them) và bị rủa-sả !
72. Nhưng người nào chống-trả lại dục-vọng và sự cấp phép cho
các thầy giảng bùa ân-xá, thì nguyện người ấy được hưởng phước!
73. Vị giáo-hoàng đã làm việc công-chính khi người cảnh-cáo những
kẻ đã dùng mọi xảo-thuật để mưu-định sự thương-tổn của việc mua bán thư ân-xá.
74. Nhưng người còn định cảnh-cáo nhiều hơn thế nữa những kẻ nào
dùng chiêu-bài ân-xá để mưu-định sự thương-tổn của tình yêu-thương và lẽ thật
thánh-thiện.
75. Nếu ai nghĩ rằng sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là vĩ-đại đến độ
chúng có thể xóa sạch tội cho một người ngay cả khi người ấy đã phạm một tội lớn
không tưởng được và đã xâm-phạm đến người mẹ của Đức Chúa Con – thì đấy là sự
điên-cuồng.
76. Trái lại, chúng tôi nói rằng, sự ân-xá của vị Giáo-hoàng
không đủ sức để xóa đi những tội dù nhỏ nhất của những tội loại không đáng chết.
77. Người ta còn nói rằng, ngay cả thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) nếu
bây giờ là vị Giáo-hoàng, cũng không thể ban cho ân-điển lớn hơn được; đây là lời
phạm-thượng đối với thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) và đối với vị Giáo-hoàng.
78. Trái lại, chúng tôi nói rằng, ngay cả vị Giáo-hoàng hiện-tại,
hay bất-kỳ một vị Giáo-hoàng nào nói chung, đều có sẵn những ân-điển lớn hơn để
người tuỳ-tiện xử-dụng; tức là Phúc-âm, quyền-năng, ơn-tứ chữa bệnh, vân vân…
như đã được chép trong 1 Cô-rinh-tô 12.
79. Nếu người ta nói rằng thập-tự-giá, khi được chạm-trổ cầu-kỳ
bằng huy-hiệu của vị Giáo-hoàng , vốn là sự xếp-đặt [bởi những kẻ rao-giảng về
thư ân-xá], thì có giá-trị ngang với Thập-tự-giá của Đấng Christ, thì ấy là tội
phạm-thượng.
80. Các vị giám-mục, linh-mục và các vị giáo-sư thần-học nào mà
cho phép những câu chuyện như vậy lan-truyền trong vòng dân-sự thì sẽ có một
món nợ phải trả.
81. Sự giảng-dạy không hạn-chế về thư ân-xá này khiến cho sự việc
trở nên không dễ-dàng, cho ngay cả những người giầu kiến-thức, để có thể cứu-vãn
sự tôn-kính mà vị Giáo-hoàng đáng được hưởng khỏi bị hoen-ố, kể cả việc cứu-vãn
khỏi những câu hỏi tinh-tế của hàng giáo-dân.
82. Tức họ nói rằng :” Tại sao vị Giáo-hoàng lại không đại-phóng-thích
ngục luyện-tội vì cớ tình yêu-thương, và vì nhu-cầu cấp-bách của những linh-hồn
hiện đang ở đó, mà lại cứu vô-số kể những linh-hồn để được những món tiền đáng
thương, rồi dùng tiền đó để xây thánh-đường ? Những lý-do đầu thật công-bình,
còn những lý-do sau thì thật là vụn-vặt.”
83. Còn nữa: “Tại sao những thánh-lễ an-táng và kỷ-niệm tang-lễ
cho người đã chết vẫn còn được tiếp-tục, và tại sao vị Giáo-hoàng lại không
thay mặt cho họ hoàn lại, hay cho phép rút ra khoản tiền hứa dâng, bởi vì việc
cầu-nguyện cho người đã được cứu-chuộc là điều sai-trật?”
84. Còn nữa: “Sự đạo-đức mới này của Đức Chúa Trời và của vị
Giáo-hoàng là như thế nào, khi chỉ vì tiền mà các Đấng ấy lại cho phép một người
vốn là vô đạo-đức và là kẻ thù của các Đấng ấy, mua ra khỏi ngục luyện-tội một
linh-hồn đạo-đức của một người bạn Đức Chúa Trời, mà các Đấng ấy lại không vì
chính nhu-cầu của linh-hồn đạo-đức thân-yêu ấy mà giải-thoát linh-hồn này bởi cớ
một tình yêu-thương đơn-thuần?”
85. Còn nữa: “Tại sao qua những dữ-kiện thực-tế và qua sự không
xử-dụng cho thấy rằng những kinh giải-tội đã bị mất hiệu-lực và đã chết từ lâu
rồi, mà bây giờ chúng lại được xem là đủ điều-kiện qua sự ban-bố bùa giải-tội,
như thể là chúng vẫn còn sống, và đang sống một cách mạnh-mẽ?”
86. Còn nữa: “Tại sao vị Giáo-hoàng, ngày hôm nay vốn là người
mà sự giàu-có còn hơn cả người giàu nhất của những người giàu, lại không dùng
tiền của chính mình để xây ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter, mà lại dùng
tiền của những tín-đồ nghèo để xây?”
87. Còn nữa: “Vị Giáo-hoàng tha những gì, và người ban-bố sự dự-phần
nào cho những người mà qua sự ăn-năn hoàn-toàn của họ, họ có quyền được hưởng sự
tha-tội hoàn-toàn và được dự-phần hoàn-toàn?”
88. Còn nữa: “Có ơn-phước nào đến với Hội-thánh lớn hơn bằng
ơn-phước khi vị Giáo-hoàng ngày hôm nay chỉ cần làm một lần những gì người mà
trước đây người phải làm hằng trăm lần mỗi ngày, và ban-phát được cho mọi tín-đồ
những sự tha-tội và dự-phần này?”
89. “Bởi vì vị Giáo-hoàng, qua sự ân-xá của người , đi tìm-kiếm
sự cứu-rỗi cho linh-hồn hơn là đi tìm tiền-bạc, thì tại sao người lại đình-chỉ
những bùa giải-tội và thư ân-xá đã được ban-bố từ trước đến bây giờ, trong khi
những vật này có thực-quả tương-đương?”
90. Nếu chỉ dùng sức mạnh để bắt-phục những sự tranh-luận và ngờ-vực
của hàng giáo-dân, mà không giải-quyết bằng cách trình-bày lý-lẽ, tức là
phơi-bày Hội-thánh và vị Giáo-hoàng cho kẻ thù bêu-riếu, và làm cho các Cơ-đốc-nhân
buồn lòng.
91. Cho nên, nếu những thư ân-xá được rao giảng theo tâm-linh và
tâm-trí của vị Giáo-hoàng, thì tất-cả những ngờ-vực này sẽ được hóa-giải dễ-dàng;
không phải vậy, chúng sẽ không còn hiện-hữu.
92. Vậy đó, hỡi những tiên-tri nào mà nói với dân-sự của Đấng
Christ rằng: “Bình-an, bình-an”8, trong khi không có sự bình-an, các ngươi hãy
dang xa ra !
93. Nguyện ơn-phước đến cho những tiên-tri nào nói với dân-sự của
Đấng Christ là: “Thập-tự-giá, thập-tự-giá”, trong khi không có thập-tự-giá!
94. Cơ-đốc-nhân phải được thúc-dục rằng họ cần phải bền-đỗ trong
việc theo Đấng Christ, là Đầu của họ, để vượt qua những hình-phạt, sự chết, và
địa-ngục:
95. Và vì thế, họ sẽ trở nên tin-quyết về việc vào thiên-đàng
qua nhiều sự khổ-nạn, hơn là qua sự bảo-đảm bình-an.
Tuonghan0603 : martin luther 95 propositions.tieng
viet.02.16082003
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét